Trưng Trắc là chị, Trưng Nhị là em. Hai Bà Trưng thuộc dòng tộc Lạc Việt, con vị Lạc tướng ở Mê Linh (nay là huyện Phúc Thọ - Hà Tây).
Trưng Trắc (13 tháng 9 năm 14 – 5 tháng 3 năm 43) là nữ anh hùng dân tộc của người Việt, người đứng đầu cuộc khởi nghĩa chống lại sự đô hộ của nhà Đông Hán trong lịch sử Việt Nam. Tháng 3, năm Canh Tý (40), thù Tô Định giết chồng mình là Thi Sách, cộng thêm sự căm phẫn bị đô hộ, bà Trắc cùng với em gái là Nhị tập hợp lực lượng ủng hộ từ các nơi cùng phát động khởi nghĩa chống nhà Hán. Cuộc khởi nghĩa được sự hưởng ứng của nhiều đội quân và nhân dân các nơi thuộc Âu Lạc và Nam Việt cũ. Thái thú Tô Định bỏ chạy, quân khởi nghĩa giành được 65 huyện thành, nghĩa là toàn bộ lãnh thổ nước Việt hồi đó.
Khởi nghĩa thắng lợi, Bà cùng em là Trưng Nhị cai trị lãnh thổ vùng Lĩnh Nam của người Việt tương đương với bộ Giao Chỉ của nhà Hán trong 3 năm. Lập ra một chính quyền riêng của người Việt với trung ương tại Mê Linh. Vì vậy, bà là nữ quân chủ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam cũng như nữ vương duy nhất của chế độ phong kiến Việt Nam.
Nhớ đến khí phách của Hai Bà Trưng, những câu kể trong sách Đại Nam quốc sử diễn ca như sau:
“Bà Trưng quê ở Châu Phong,
Giận quân hung bạo, thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân.
Ngàn tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên.
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thùy.
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.”
Thiên Nam ngữ lục cũng ghi lại nghĩa khí “đền nợ nước trả thù nhà” của Hai Bà như sau:
“Một xin rửa sạch quốc thù,
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng.
Ba kẻo oan ức lòng chồng,
Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này”.